Đăng ký tư vấn
Hỗ trợ trực tuyến

PHÒNG TRÁNH HÓC DỊ VẬT ĐƯỜNG THỞ

  14/01/2019

            Trẻ lứa tuổi mầm non, hiếu động, tò mò, thích tìm hiểu môi trường xung quanh, thích khám phá, hay bắt chước nhưng chức năng của các hệ cơ quan chưa hoàn thiện, lại chưa ý thức được các nguy cơ và cách phòng tránh, nên ở trường mầm non trẻ dễ mắc các tai nạn như: dị vật đường thở, dị vật đường ăn, bỏng, điện giật, đuối nước, ngộ độc, động vật cắn,...

            Dị vật đường thở rất hay gặp ở trẻ mầm non, nhưng khi xảy ra tai nạn, người chăm sóc trẻ thường mất bình tĩnh, xử lí không kịp, không đúng và đa số là để lại hậu quả nghiêm trọng cho trẻ hoặc dẫn đến tử vong. Vì vậy, người chăm sóc trẻ, đặc biệt giáo viên (GV) mầm non cần phòng tránh dị vật đường thở cho trẻ và biết cách xử lí khi tai nạn xảy ra.

1. Một số nguyên nhân dẫn đến trẻ mầm non dễ bị dị vật đường thở:

- Do đặc điểm sinh lí của trẻ:

            Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có cấu tạo của dạ dày hình tròn, nằm ngang, nằm cao, cơ thắt tâm vị yếu nên lỗ tâm vị mở rộng, cơ thắt môn vị phát triển hơn nên lỗ môn vị đóng chặt, thức ăn thường là lỏng, dạ dày có nhiều hơi nên dễ bị nôn trớ, đặc biệt là sau khi ăn no. Khi bị nôn trớ, trẻ thường hoảng sợ, gào khóc làm đường dẫn khí mở, dẫn tới thức ăn lọt vào đường hô hấp gây sặc. Tai nạn trong trường hợp này thường xảy ra trong giờ ăn hoặc sau giờ ăn - lúc trẻ ngủ trưa ở trường.

            Trẻ dễ bị sặc nếu cô giáo cho trẻ ăn hoặc uống khi trẻ đang khóc, đang ho, đang ngủ gật, hoặc không tập trung khi ăn như: vừa ăn vừa xem ti vi, vừa xem điện thoại..., thậm chí đánh mắng khi trẻ đang ăn, ép cho trẻ ăn khi trẻ không muốn ăn, bịt mũi, bóp miệng bắt trẻ nuốt. Tai nạn trong trường hợp này thường xảy ra trong giờ ăn.

- Do lứa tuổi mầm non còn hạn chế trong nhận thức và hiểu biết, đặc biệt trẻ nhỏ có phản xạ môi miệng phát triển nên vật gì cũng cho vào miệng, nguy cơ dị vật đường thở là rất lớn nếu GV mầm non không bao quát, trông trẻ cẩn thận.

- Do bất cẩn của GV trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Trong quá trình chơi, nếu GV không bao quát kĩ, trẻ có thể nhặt đồ chơi nhét vào mũi, vào tai, thậm chí ngậm đồ chơi vào miệng dẫn tới sặc (nhất là các loại đồ chơi nhỏ tròn như: hạt cườm, hòn bi,...). Cho trẻ ăn quả không bỏ hết hạt như: quả vải, quả nhãn, quả na, hồng xiêm,...; hoặc trẻ ăn các loại hạt như: hạt bí, hạt hướng dương, hạt lạc, hạt đậu phộng,... Để trẻ vừa nằm vừa ăn, khiến phản xạ nuốt khó khăn hơn và làm đường dẫn khí thẳng nên dễ bịsặc. GV cho trẻ, ngồi, nằm ngủ dưới đất, các con côn trùng dễ bò vào mũi, tai,...

2.3. Biểu hiện của trẻ bị dị vật đường thở và cách xử lí.

            Tùy thuộc vào bản chất, vị trí, kích thước dị vật mà biểu hiện và mức độ nguy hiểm khác nhau. 2.3.1. Dị vật là chất lỏng hoặc nửa lỏng, nửa đặc như: sữa, bột, cháo hay nước,... (còn gọi là sặc), hoặc dị vật là chất rắn mắc ở họng, thanh quản (còn gọi là hóc).

Biểu hiện: Khi dị vật mắc ở thanh quản gây ra hội chứng hội nhập, tức là cơn ho dữ dội cùng với khó thở (thở có tiếng rít, nhịp thở chậm và khó thở vào), tím tái, vã mồ hôi, toàn thân vật vã, có khi tè dầm,...

 Trẻ có thể tử vong do tắc đường thở vì không cấp cứu kịp; hoặc dị vật được tống ra ngoài và sau 10-15 phút, trẻ dần trở lại bình thường. Dị vật ở lại thanh quản như: xương cá, vảy cá, râu tôm,..., biểu hiện sau hội chứng xâm nhập vẫn còn khó thở thanh quản, khàn tiếng hoặc mất tiếng.

Cách xử lí: Nếu trẻ đang ăn thì dừng ngay việc cho ăn.

- Với trẻ nhỏ dưới 6 tháng: Cô ngồi trên ghế, đùi dốc về phía đầu gối, một tay để dọc lên đùi (nếu trẻ nhẹ, cô có thể đứng đặt trẻ dọc trên tay). Để trẻ nằm sấp dọc trên cánh tay Cô, đầu thấp, vai và cằm của trẻ được đỡ bởi một bàn tay của Cô, dùng gót bàn tay còn lại vỗ đủ mạnh vào lưng (giữa 2 xương bả vai) của trẻ để tống dị vật ra ngoài (xem hình 1).Vẫn để trẻ tư thế như vậy, GV luồn tay lau hết dị vật mũi miệng cho trẻ. Nếu trẻ ngừng thở thì hô hấp nhân tạo miệng - miệng; nếu trẻ ngừng tim thì ép tim ngoài lồng ngực rồi chuyển đến bệnh viện.

Hình 1

- Với trẻ trên 6 tháng: Cô ngồi trên ghế, đùi dốc về phía đầu gối, đặt trẻ nằm sấp trên đùi mình, đầu thấp xuôi về phía đầu gối, 2 chân trẻ quặp về 2 bên đùi như (cưỡi lên đùi): một tay giữ trẻ, gót bàn tay kia vỗ đủ mạnh vào lưng (vùng giữa 2 bả vai) của trẻ để tống dị vật ra ngoài. Vẫn để trẻ tư thế như vậy, cô luồn tay lau hết dị vật mũi miệng cho trẻ. Nếu trẻ ngừng thở thì hô hấp nhân tạo miệng - miệng, nếu trẻ ngừng tim thì ép tim ngoài lồng ngực rồi chuyển đến bệnh viện.

2.3.2. Dị vật ở mũi, tai

Biểu hiện: Trong quá trình chơi, trẻ có thể nhét các loại hạt, cúc áo,..., các loại dị vật này thường phát hiện muộn vì trẻ sợ không dám nói, triệu chứng tắc một bên mũi. Dị vật ở tai để lâu gây viêm tai giữa, thối, chảy mủ.

Cách xử lí: Đưa trẻ đến viện.

2.3.3. Dị vật xuống phế quản, phổi

Biểu hiện: Khi dị vật qua thanh quản có hội chứng xâm nhập, sau đó là triệu chứng tạm thời yên lặng, sau 3- 4 ngày có triệu chứng của nhiễm khuẩn.

Cách xử lí: Đưa trẻ đi viện.

            Trong quá trình xử lí khi phát hiện trẻ bị dị vật đường thở, cần lưu ý:

- Tuyệt đối không được dùng tay móc dị vật, hành động này có thể làm cho trẻ bị nôn và trào vào đường hô hấp, đôi khi còn làm trầy xước, phù nề, xung huyết vùng họng, khiến trẻ trở nên nguy hiểm;

- Đây là cấp cứu đòi hỏi sự nhanh chóng, khẩn trương, động tác cấp cứu phải chính xác, nhịp nhàng;

- Thái độ phải bình tĩnh, dứt khoát, ngay sau khi tai nạn xảy ra cần khẩn trương sơ cứu ban đầu, đồng thời gọi ngay xe cấp cứu đến hỗ trợ, tuyệt đối không được dấu do sợ hãi làm ảnh hưởng đến tính mạng của trẻ.

2.4. Phòng tránh dị vật đường thở cho trẻ

- Về phía GV:

            Khi nôn, nếu trẻ đang nằm thì nghiêng đầu trẻ về một bên để chất nôn chảy ra ngoài và không bị hít vào đường hô hấp, tuyệt đối không bế xốc trẻ dậy khi trẻ đang nôn sẽ làm chất nôn dễ trào vào đường hô hấp. Nếu trẻ đang ngồi hoặc đang đứng thì cuối đầu xuống để chất nôn không vào đường hô hấp.          Không cho trẻ ăn khi đang khóc, đang ho, đang ngủ gật. Với những trẻ hay khóc, hay nôn trớ, cần cho ăn miếng nhỏ, ăn từ từ, vừa ăn vừa theo dõi, không đưa thìa sâu vào họng trẻ.

            Khi cho trẻ ăn phải ngồi, không được để trẻ vừa nằm vừa ăn.

            Khi chế biến thức ăn cho trẻ cần gỡ hết xương, cho ăn các loại quả cần bỏ hết hạt,...

            Nếu trẻ đang ngậm hoặc ăn những thức ăn dễ gây hóc hoặc sặc, không nên hốt hoảng, la hét, mắng trẻ, khiến trẻ sợ hãi làm dị vật dễ rơi vào đường thở.

            GV cần bao quát trẻ mọi lúc mọi nơi, không cho trẻ nằm dưới sàn nhà, tránh một số con vật chui vào tai và mũi trẻ.

            GV mầm non cần tuyên truyền cho các bà mẹ và cộng đồng sự nguy hiểm của dị vật đường ăn, đường thở, cách phòng tránh cho trẻ và xử lí khi tai nạn xảy ra.

- Về phía trẻ: GV mầm non cần giáo dục cho trẻ những thói quen như sau:

            Ăn chậm nhai kĩ, không được nuốt vội vàng, không ăn miếng quá to, tập trung khi ăn, khi ăn không cười đùa, nói chuyện; khi ăn không ngậm thức ăn;

            Không cho đồ chơi vào miệng, không ngậm đồ chơi, không nhét đồ chơi vào mũi, miệng, tai,...

- Về phía nhà trường: Hàng năm, nhà trường cần tổ chức các buổi tập huấn cho GV cách xử lí khi trẻ bị dị vật đường thở và cách phòng tránh cho trẻ.

            Xã hội ngày càng phát triển hiện đại, càng đòi hỏi một đứa trẻ khỏe mạnh, năng động, thông minh, có nhiều kĩ năng xã hội. Chính vì vậy, đòi hỏi người chăm sóc nuôi dưỡng cần phải có kiến thức và thực hành dinh dưỡng đúng, tuy nhiên mỗi đứa trẻ là một thực thể khác nhau, chúng ta không thể so sánh trẻ này với trẻ khác gây áp lực cho trẻ và cho cả chính bản thân mình, đôi khi không kiểm soát được thì chính lại là sai lầm. Do đó, trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, cần phải lắng nghe, hiểu trẻ để có những tác động phù hợp, hạn chế tối đa những sai lầm hay mắc, giúp trẻ phát triển tốt về cả thể chất và tinh thần.

Nguồn: Tạp chí giáo dục

Bình luận

Tin tức mới Xem tất cả